Biến đổi khí hậu với phát triển đô thị: Thực trạng, kinh nghiệm và một số giải pháp

Một trong những thách thức lớn nhất mà nhân loại đang phải đối mặt đó là vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) toàn cầu, là sự nóng lên của trái đất và hiện tượng nước biển dâng.

BĐKH đe dọa tất cả các quốc gia, đặc biệt các nước đang phát triển. Với một vị trí và đặc điểm của địa hình, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia chịu nhiều thiên tai nhất trên thế giới, từ bão biển, bão nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán, trượt lở đất, xâm nhập mặn, cháy rừng, bệnh tật… BĐKH đã, đang và vẫn sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của các thành phố và cư dân đô thị, nhất là đối với người nghèo. Những tác động của BĐKH ngày càng gia tăng với mức độ nghiêm trọng hơn và phức tạp hơn. Bài viết khái quát về tác động của BĐKH đến phát triển đô thị, kinh nghiệm và một số giải pháp nhằm góp phần giảm thiểu các tác động này.

I. TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI ĐỐI VỚI QUẢN LÝ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ

Trong những năm vừa qua, với quyết tâm của Chính phủ, các Bộ, ngành và các địa phương, nhiều chiến lược, chương trình và kế hoạch về ứng phó và giảm thiểu tác động của BĐKH đã được ban hành và tổ chức thực hiện, bước đầu đã có kết quả nhất định. Hệ thống đô thị nước ta đã có bước phát triển nhanh về số lượng với 870 đô thị, tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 40%, đồng thời chất lượng đô thị ngày càng được được nâng cao. Bộ măt đô thị khang trang và đẹp hơn. Hạ tầng kỹ thuật đô thị được chú trọng đầu tư theo hướng đồng bộ và từng bước hiện đại. Hạ tầng xã hội đô thị được đa dạng hóa, tăng quy mô và cải thiện chất lượng phục vụ.

Tuy nhiên, các đô thị của Việt Nam không nằm ngoài những tác động của biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan và diễn biến không theo quy luật đã và đang xuất hiện nhiều hơn trong mấy năm gần đây. Đó là, nguồn nước cấp bị ảnh hưởng bởi nhiễm mặn tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nhiều khu vực bị hạn hán ở vùng Tây Nguyên, đặc biệt là hiện tượng mưa lớn kéo dài gây ngập úng ở một số đô thị vùng Đông Nam bộ và cả khu vực phía Bắc hoặc lũ quét, lũ ống, lũ chồng lũ tại các tỉnh vùng Duyên hải Trung bộ và Tây Nguyên đã gây thiệt hại rất lớn đến người và tài sản…

Theo báo cáo của một cơ quan chuyên môn ở Hà Nội và qua nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, quá trình đô thị hóa và mở rộng địa giới hành chính, Hà Nội đã trở thành một trong 17 đô thị lớn nhất thế giới và Thủ đô cũng đang phải hứng chịu những tác động tiêu cực do BĐKH gây ra. Theo số liệu thống kê, trước năm 1970 tần suất mưa, lụt lớn tại TP Hà Nội xảy ra từ 15 – 25 năm/lần. Trong vòng 60 năm qua, các đợt lũ lụt xảy ra trở nên thường xuyên hơn, với tần suất 5 – 7 năm/lần. Dân số của Hà Nội cũng tăng cao (hiện có khoảng trên 7,7 triệu người, trong đó dân số đô thị chiếm trên 40%). Hà Nội hiện có 17 khu công nghiệp, khu công nghệ cao, 1.350 làng nghề, hơn 5,7 triệu xe gắn máy và 700 nghìn ôtô (năm 2020), mỗi ngày tiêu thụ ước tính trên 38 triệu KWh điện và hàng triệu lít xăng dầu…

Đây chính là các nguồn phát thải khí nhà kính. Thành phố thiếu không gian cây xanh và không gian công cộng đô thị. Tình trạng bê tông hóa quá mức bề mặt đô thị, phát triển đô thị thiếu kiểm soát, thiếu gắn kết với bảo vệ môi trường. Ngoài ra, Hà Nội đã có quy hoạch thoát nước toàn thành phố, nhưng tổ chức triển khai chậm, nhiều sông, kênh, mương bị cống hóa nhưng việc kết nối liên thông ra nguồn tiếp nhận còn hạn chế. Tình trạng bùn thải, đất đá, rác thải chưa được quan tâm thu gom, nạo vét thường xuyên. Hạ tầng yếu kém cùng với tác động của BĐKH khiến nguy cơ gây ngập úng ngày càng cao. Phần lớn các đô thị của Việt Nam nằm trong vùng dễ tổn thương của BĐKH.

Báo cáo của Bộ Xây dựng về nhận diện nguy cơ rủi ro trên cơ sở kịch bản BĐKH gần đây cũng cho thấy, hệ thống đô thị ven biển và vùng Đồng bằng sông Cửu Long có tới 138 đô thị có nguy cơ ngập cao, trong đó có 24 đô thị thuộc 15 tỉnh có nguy cơ ngập nặng đến rất nặng. Đối với hệ thống đô thị miền núi và Tây Nguyên có 143 đô thị có nguy cơ chịu ảnh hưởng, trong đó, có 17 đô thị có nguy cơ chịu ảnh hưởng rất mạnh. BĐKH tác động đến việc phát triển kết cấu hạ tầng đô thị, đặc biệt là tác động đến hệ thống giao thông, cung cấp nước sạch, làm gia tăng ngập úng đô thị.

Hầu hết nội dung của quy hoạch đô thị chưa tính đến tác động của BĐKH hoặc một số quy hoạch đô thị trong thời gian gần đây cũng đã bắt đầu có các ý tưởng. Tuy nhiên, cũng chỉ mới đề xuất ban đầu, nhiều giải pháp được đề xuất mang tính lý thuyết chung chung chưa khả thi. Năng lực dự báo của quy hoạch cũng chưa theo kịp tốc độ đô thị hóa và xu thế phát triển đô thị; quy hoạch có xu hướng dễ bị điều chỉnh và thiếu tính hợp nhất đa ngành. Quy hoạch tỉnh hiện đang được nhiều tỉnh triển khai song việc lồng ghép BĐKH trong các giải pháp quy hoạch còn rất nhiều hạn chế và mờ nhạt.

Quản lý phát triển đô thị lại chưa theo kịp thực tiễn phát triển; phát triển đô thị mất cân đối, hạ tầng đô thị thiếu đồng bộ và quá tải; môi trường đô thị thiếu kiểm soát, các công trình xử lý nước thải sinh hoạt, công nghiệp còn thiếu và đầu tư chậm, tình trạng phổ biến là việc xả nước thải trực tiếp không qua xử lý ra môi trường đã và đang gây ô nhiễm hệ thống sông, hồ… Việc san lấp các vùng trũng xung quanh hoặc phát triển tại các khu vực rủi ro để xây dựng và phát triển các khu đô thị, khu công nghiệp, bê tông hóa bề mặt, việc lấp hồ ao trong đô thị, đổ rác thải, lấn chiếm lòng sông, chặn dòng chảy… đã cản trở đến dòng chảy tự nhiên hay phá rừng đầu nguồn…; cùng với thời tiết cực đoan, biến đổi thất thường, đã góp phần không nhỏ làm cho trầm trọng thêm tình trạng ngập úng đô thị, gây thiệt hại đến tính mạng và tài sản của nhân dân.

II. KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CỦA ĐÔ THỊ VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ THÀNH PHỐ TRÊN THẾ GIỚI

Khả năng thích ứng của đô thị với BĐKH bao gồm: Khả năng chuẩn bị ứng phó với thiên tai, khả năng chống chịu và ứng phó trong điều kiện thiên tai, khả năng phục hồi sau thiên tai và khả năng sáng tạo giảm thiểu các tác động của thiên tai để phát triển bền vững.

Đô thị có khả năng thích ứng cao là đô thị có khả năng giảm thiểu, chống chịu, phục hồi và chuyển hóa tốt các thách thức để duy trì và phát triển các chức năng và cấu trúc của nó trong điều kiện có các tác động của tai biến, BĐKH. Xây dựng đô thị có khả năng thích ứng với BĐKH có nghĩa là: Thực hiện phát triển cơ sở hạ tầng và bảo vệ các hệ sinh thái để nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống tự nhiên – xã hội với BĐKH và thiên tai, nâng cao khả năng ứng phó xã hội và duy trì hệ thống hỗ trợ đô thị. Kinh nghiệm của một số thành phố trên thế giới trong việc nâng cao khả năng chống chịu và giảm thiểu tác động của thiên tai và BĐKH thông qua nhiều giải pháp, mà một trong các giải pháp đó là phòng, chống lũ lụt hoặc quản lý ngập úng đô thị hiệu quả, có thể là các bài học cho chúng ta tham khảo:

Thành phố Malmo, Thụy Điển thường xuyên chịu ảnh hưởng bởi lũ lụt bởi hệ thống thoát nước bị quá tải, dẫn đến những hậu quả về kinh tế – xã hội. Từ năm 1999 – 2001, chính quyền thành phố đã khởi xướng dự án xây dựng hệ thống thoát nước đô thị bền vững (SUDS) để ứng phó với ngập lụt, cải thiện vấn đề quản lý nước thải đồng thời phát triển đa dạng sinh học. Theo như đề xuất của dự án, một phần nước mưa được dẫn theo hệ thống tách biệt ra khỏi hệ thống thoát nước chung hiện có của thành phố, từ đó thực hiện thoát nước bằng hệ thống kênh hở và các hồ điều hòa.

Mục tiêu là giảm mức độ ngập lụt tới 70%, không còn xảy ra hiện tượng tràn cống bằng cách giảm lưu lượng mưa vận chuyển qua hệ thống cống thoát nước và giảm lưu lượng đỉnh. Đồng thời, giảm diện tích mặt phủ không thấm nước, bảo tồn và gia tăng diện tích cây xanh, quản lý nước mưa hiệu quả để giảm lưu lượng dòng chảy bề mặt. Dự án đã đạt mục tiêu quản lý hiệu quả hệ thống thoát nước, không còn xảy ra ngập lụt cục bộ cũng như cải thiện hiệu quả vận chuyển của hệ thống thoát nước chung. Cách tiếp cận tổng hợp như vậy đã đem lại các kết quả khả quan cho việc quản lý rủi ro ngập lụt cũng như đem lại hiệu quả cho nền kinh tế, hạn chế tác động xấu lên môi trường.

Thủ đô Tokyo, Nhật Bản với dân số 36 triệu người, có 50% dân cư sinh sống tại vùng có địa hình thấp. Điều này gây nên rủi ro ngập lụt lớn cho thành phố, bởi vùng đô thị này nằm trên châu thổ 8 con sông lớn của Nhật Bản. Chính quyền vùng đã có các dự án tầm cỡ để điều tiết và phòng chống ngập lụt đô thị. Hệ thống hồ điều tiết thoát lũ xây dựng ngầm của dự án đường vành đai số 7 sông Kandagawa là một dự án điển hình về đầu tư hạ tầng kỹ thuật thoát nước và chống lũ lụt cho thành phố. Hệ thống này được thiết kế có sức chứa 540 nghìn m3 nước, với kích thước tương đương với 22 hồ bơi chuẩn Thế vận hội Olympic.

 

Nhằm tăng cường khả năng thoát lũ cho thủ đô Tokyo, giải pháp được các nhà khoa học đưa ra là đào đường ngầm đặt sâu dưới lòng đất dài 6,3 km với 5 giếng thu nước khổng lồ để hút nước từ các con sông, dẫn về bể chứa số 1. Theo thiết kế, năng lực thoát lũ cao nhất đối với sông Kuramatsu là 100 m3/ giây, thấp nhất là 4,7 m3/giây đối với kênh thoát nước số 18. Các giếng thu có đường kính 32 m và sâu 65 m. Như vậy, khối lượng và tốc độ nước dồn về bể thu số 1 là vô cùng lớn. Tại đây, có trạm bơm khổng lồ bơm nước đổ vào sông Edo (bên trái) đủ lớn để thoát vào vịnh Tokyo. Đường hầm thoát lũ lớn nhất thế giới này khởi công xây dựng năm 2006 và hoàn thành, đưa vào sử dụng năm 2013, với tổng chi phí hơn 2 tỷ USD.

Ngoài ra, Tokyo cũng quy hoạch các hệ thống hạ tầng xanh bao gồm cánh đồng ngập nước nhân tạo Watarase-yusuichi, đóng vai trò là vùng đất ngập nước với hệ sinh thái đa dạng ngay trong đô thị. Watarase-yusuichi điều tiết lưu lượng dòng chảy của sông Tone và sông Arawase, phòng ngừa và bảo vệ đô thị không xảy ra lụt. Bộ Đất đai, Hạ tầng và Giao thông Nhật Bản (MLIT) và chính quyền vùng cũng đã thực hiện truyền thông vào giáo dục nhận thức cho dân cư thành phố về các mối nguy hại và các phương án đối phó với thảm họa cũng quan trọng như là việc xây dựng các công trình chống lũ. Chính quyền đã duy trì thực hiện các chiến dịch truyền thông về phòng ngừa rủi ro với các trạm cấp nước khi có lũ lụt xảy ra trong vòng bán kính 2 km khắp thành phố. Thêm nữa, dân cư thành phố cũng được hướng dẫn về các địa điểm có thể di tản khi có lũ lụt xảy ra. Một trong các địa điểm được quy hoạch đó là Công viên Tokyo Rinkai có diện tích 13,2 ha, có thể chứa được hàng nghìn người dân di tản.

Thành phố Bratislava – Thủ đô nước Slovakia, nằm trong lưu vực sông Danube, đã từng chịu tác động nặng nề của những trận lũ lụt, gần đây nhất vào tháng 6/2013, một đợt lũ lớn xảy ra sau đợt mưa với cường độ cao khiến cho mức nước trên sông Danube dâng lên tới mức báo động số 3. Chính quyền thành phố Bratislava đã thực hiện các phương pháp khẩn cấp về an toàn lũ lụt và xây dựng hệ thống công trình ngăn lũ di động. Hệ thống đê ngăn lũ di động này là một điển hình thành công của công tác phòng chống thiên tai lũ lụt của thành phố. Hệ thống di động được cấp bằng sáng chế DPS2000 này lắp đặt trong thời gian ngắn và trải dài khoảng 15 km bao gồm các tấm chắn nước bằng thép vít chặt vào các cột thép được dựng lên cùng với hệ thống tường ngăn cố định. Hệ thống ngăn lũ di động đã giúp bảo vệ thành phố khỏi bị ngập lụt khi mức nước sông Danube dâng lên cao tới 10,40 m. Hệ thống kiểm soát lũ lụt của thành phố Bratislava dựa trên các nguyên tắc sau: (i) Bảo vệ dân cư trong khu vực ưu tiên ảnh hưởng bởi lũ lụt; (ii) Ngăn chặn các thiệt hại kinh tế trong khu vực ưu tiên; (iii) Ngăn chặn các ảnh hưởng về môi trường trong khu vực ưu tiên; (iv) Bảo vệ nguồn nước cung cấp cho ăn uống và tưới tiêu; (v) Bảo vệ các công trình hạ tầng kỹ thuật: đường bộ, đường sắt…

Thành phố Cologne – CHLB Đức là thành phố lớn thứ tư của Đức với hơn 1 triệu dân. Thành phố được xây dựng ở hai bên bờ sông Rhine và đã có 2.000 năm tuổi. Do có vị trí gần con sông lớn nhất của nước Đức, lũ lụt là một thách thức lâu dài cho người dân Cologne qua nhiều thế kỷ. Các trận lũ lụt nghiêm trọng trong thập kỷ 90 và đợt mưa gây ngập lụt nặng nề vào tháng 7/2021 vừa qua đã gây thiệt hại nặng nề cho các hoạt động của con người. Cologne là thành phố đầu tiên ở Đức xây dựng một khái niệm phòng chống lụt bão và là thành phố duy nhất có trung tâm phòng chống lũ lụt thường xuyên. Khái niệm phòng chống lũ lụt đó là một kế hoạch hành động tích hợp, quản lý lũ lụt theo hướng quản lý công trình và phi công trình. Kế hoạch này có sự tích hợp các hoạt động phòng chống lũ lụt khu vực và liên khu vực, giảm thiệt hại do lũ gây ra…

Các biện pháp được đề xuất bao gồm: (i) Xây dựng kế hoạch cảnh báo lũ; (ii) Phát triển hệ thống quản lý thông tin; (iii) Kiểm soát lũ từ xa; (iv) Xây dựng các bức tường chắn lũ bao gồm các bức tường di động; (v) tăng cường hệ thống xử lý nước thải; (vi) Thường xuyên nâng cao nhận thức của cộng đồng… Một trong những nguyên tắc cơ bản trong quản lý lũ lụt là: Thông tin chính xác + Địa điểm chính xác + Thời điểm chính xác + Đúng người + Đúng biện pháp = Chuẩn bị tốt.

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU TÁC ĐỘNG CỦA BĐKH ĐẾN QUẢN LÝ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ

1.    Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến BĐKH. Hiện nay “Ứng phó với BĐKH” chỉ được quy định tại một chương trong Luật Bảo vệ môi trường 2020. Vì vậy, đề xuất có một luật riêng về BĐKH. Trong các chiến lược, định hướng và chương trình phát triển đô thị và các ngành liên quan cần phải bổ sung các giải pháp, kế hoạch, mục tiêu giảm phát thải của từng ngành nghề, lĩnh vực; khuyến khích sử dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường, sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng mới và tiết kiệm năng lượng. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật phù hợp với BĐKH.

2.    Lồng ghép việc thích ứng với BĐKH vào quy hoạch đô thị với các 3 mục tiêu: (1) tạo điều kiện để giảm nhẹ thiệt hại; (2) tạo điều kiện để thực hiện các biện pháp xây dựng công trình và phi công trình; (3) tạo điều kiện để cứu trợ khi có tại họa xẩy ra. Tận dụng tối đa điều kiện tự nhiên, điều kiện địa hình, cảnh quan và sinh thái để phân khu chức năng, định hướng phát triển không gian và bố trí hệ thống kết cấu hạ tầng một cách hợp lý; đối với các vùng đất gần cửa sông, ven biển, khi quy hoạch đô thị phải có các giải pháp phòng chống thiên tai, nước biển dâng, các công trình công cộng như trường học, trụ sở cơ quan… phải ở vị trí thích hợp, xây dựng kiên cố, tăng độ an toàn để khi cần thiết sử dụng làm nơi tạm thời lánh nạn. Mạng lưới đường giao thông phải lưu ý các khoảng cách đến các cơ sở dịch vụ như y tế, chợ, trường… thuận tiện, hợp lý. Trong các giải pháp thoát nước cần ứng dụng mô hình thoát nước bền vững, đó là bảo vệ và lồng ghép các hệ thống nước tự nhiên trong khu vực đô thị bằng cách tích hợp các chức năng thấm, thu giữ, trữ và xử lý nước mưa vào các công trình cảnh quan đô thị (không gian đa chức năng như công viên, khu vui chơi giải trí, sân chơi, thảm cây xanh…) khi có mưa lớn xảy ra.

3.    Đánh giá rủi ro đô thị (URA) và quản lý rủi ro; Xây dựng cơ sở dữ liệu; Lập bản đồ ngập úng/bản đồ thích ứng với BĐKH; Xây dựng bộ chỉ số đánh giá mức độ chống chịu tác động của BĐKH; Thông tin nhanh kịp thời về tác động của BĐKH. Nâng cao hiệu quả của công tác dự báo, giám sát và cảnh báo sớm; Lập đề án chống ngập cho các đô thị lớn và có kế hoạch tổ chức triển khai hiệu quả; Tập trung hoàn thành việc đầu tư, xây dựng, cải tạo hệ thống thoát nước, cải tạo và chống lấn chiếm thu hẹp hồ ao, sông, kênh trong đô thị, thường xuyên nạo vét khơi thông dòng chảy, xây dựng, củng cố, nâng cấp hệ thống đê bao, đê xung yếu, bờ ngăn chống lũ; Khảo sát và xây dựng các hồ, hầm lưu trữ nước mưa tại các đô thị.

4.    Xây dựng chương trình đào tạo và tổ chức đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên môn các cấp về quản lý, phát triển đô thị ứng phó với BĐKH.

5.    Đổi mới công tác giáo tuyên truyền, giáo dục và nâng cao nhận thức cộng đồng nhằm tạo ra sự chuyển biến cơ bản trong tư duy, hành động về phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với BĐKH. Phối hợp với người dân trong việc phòng chống thiên tai, thông qua các hình thức tổ chức nhắn tin qua điện thoại để người dân không bị bất ngờ và có kế hoạch đối phó với thiên tai và cập nhật diễn biến trên truyền thông để người dân có thể nắm bắt sát tình hình, lên kế hoạch công việc, sinh hoạt cho phù hợp, giảm thiểu thiệt hại về vật chất.

KẾT LUẬN

BĐKH ở Việt Nam tác động đến mọi mặt của cuộc sống, tác động đến nền kinh tế và hoạt động xã hội. BĐKH gây thiệt hại trực tiếp đến hạ tầng, tài sản…, làm tổn thương đến hoạt động sinh kế của của người dân. BĐKH đang là vấn đề của toàn cầu, đồng thời cũng là vấn đề của mỗi quốc gia. BĐKH ngày càng trở nên khó lường và mang tính cực đoan, nhiều khi ngoài dự báo của các cơ quan chuyên môn. Thích ứng, giảm thiểu hay tăng cường năng lực đô thị ứng phó là việc làm rất cần thiết, đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt hơn của các ngành, các cấp và mọi người dân.

Call Now